10:40 22/10/2024
Bài viết đánh giá thực trạng phát triển các KCN của Hà Nội thời gian qua, chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển trong thời gian tới.
Phát triển các khu công nghiệp của Hà Nội: Thực trạng và giải pháp
Việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp (KCN) trên địa bàn TP. Hà Nội không những góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nói chung của Thủ đô, mà còn làm thay đổi cơ cấu ngành theo hướng ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp mới. Bài viết đánh giá thực trạng phát triển các KCN của Hà Nội thời gian qua, chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển trong thời gian tới.
Trong thời gian qua, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, như: sự ổn định về chính trị, thế và lực của Việt Nam ngày càng gia tăng trên trường quốc tế; các nền kinh tế trong khu vực có sự phục hồi và phát triển tích cực, mặc dù chịu tác động của đại dịch Covid-19, nền kinh tế Thủ đô nói chung, các KCN của Hà Nội nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, như: tình hình thế giới có một số biến động, như: xung đột quân sự Nga-Ucraina làm giá xăng dầu tăng cao và thiếu hụt, nguồn cung một số mặt hàng thuộc nguyên nhiên liệu của một số doanh nghiệp bị đứt gãy… Bên cạnh đó, nội tại các KCN của Hà Nội cũng còn nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến tình hình thu hút đầu tư, sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì thế, việc đánh giá thực trạng hoạt động của các KCN của Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển trong thời gian tới là cần thiết.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC KCN TẠI HÀ NỘI
Kết quả đạt được
Thời gian qua, TP. Hà Nội đã đặc biệt quan tâm đến hoạt động thu hút đầu tư và cam kết tiên phong về tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, đồng hành cùng doanh nghiệp. Thành phố đã có những chỉ đạo quyết liệt về xây dựng chính phủ điện tử, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Nhiều dịch vụ công liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp có thể thực hiện 100% trên môi trường mạng, như: đăng ký kinh doanh, thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội; đăng ký quyền sử dụng đất, cấp phép xây dựng… Đồng thời, Thành phố tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính thông qua đã ủy quyền cho Ban quản lý các KCN và chế xuất là đầu mối giải quyết theo cơ chế “một cửa, liên thông” với tất cả các thủ tục hành chính trong KCN về đầu tư, quy hoạch xây dựng, lao động, môi trường… Vì thế, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các KCN của Hà Nội cũng đã đạt được nhiều kết quả, thể hiện như sau:
Về sản xuất, kinh doanh trong các KCN
Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội có 9 KCN đang hoạt động với tổng diện tích 1.670,6 ha; 3 KCN đã thành lập và đang trong quá trình triển khai xây dựng hạ tầng với tổng diện tích 663,4 ha, gồm: KCN Quang Minh II, diện tích 160 ha; Khu công nghệ cao sinh học Hà Nội, diện tích 200,6 ha; KCN Sạch Sóc Sơn, diện tích 302,8 ha.
Với chính sách linh hoạt và nhiều hỗ trợ của Chính phủ và Thành phố, tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cơ bản ổn định (Bảng). Tuy nhiên thời điểm hiện tại, sản xuất công nghiệp đang đối mặt với việc sụt giảm đơn hàng những ngành hàng xuất khẩu lớn, như: dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ… Những tháng cuối năm 2022, đầu năm 2023 nhiều doanh nghiệp giảm doanh thu, giảm giờ làm để duy trì và giữ công nhân, rủi ro việc thiếu hụt nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất còn hiện hữu.
Bảng: Kết quả sản xuất, kinh doanh năm 2021, 2022, ước 6 tháng đầu năm 2023
Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu | Năm 2021 | Năm 2022 | Ước 6 tháng đầu năm 2023 |
Doanh thu | 7.775 | 8.947 | 4.277 |
Nộp ngân sách nhà nước | 239 | 300 | 158 |
Xuất khẩu | 4.887 | 5.443 | 2.801 |
Nhập khẩu | 4.104 | 4.342 | 2.258 |
Nguồn: Ban Quản lý các KCN và chế xuất Hà Nội
Tuy chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 và suy giảm kinh tế thế giới, nhưng tốc độ tăng trưởng sản xuất, kinh doanh trong các KCN vẫn đạt vượt mức kế hoạch đề ra (năm 2021 tăng 2,3%; năm 2022 tăng 15%).
Về thu hút đầu tư
Theo Ban quản lý các KCN và chế xuất Hà Nội, năm 2021, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19, các KCN và chế xuất của Hà Nội vẫn thu hút 7 dự án mới với vốn đăng ký 27 triệu USD và 315 tỷ đồng, 26 dự án đầu tư mở rộng vốn đăng ký 147 triệu USD và 2039 tỷ đồng; tổng mức thu hút đầu tư đạt 275 triệu USD quy đổi, đạt 92% so với kế hoạch năm 2021, gấp 2,3 lần so với cùng kỳ năm 2020.
Năm 2022, các KCN của Hà Nội thu hút đầu tư được 9 dự án mới vốn đăng ký 8,5 triệu USD và 611 tỷ đồng, 19 dự án đầu tư mở rộng vốn đăng ký 308 triệu USD và 385 tỷ đồng; tổng mức thu hút đầu tư đạt 359,5 triệu USD quy đổi, đạt 90% hoạch đề ra, gấp 1,5 lần so với cùng kỳ năm 2021.
Quý I/2023, các KCN đã thu hút đầu tư được 99 triệu USD quy đổi, trong đó có 01 dự án mới và 09 dự án đầu tư mở rộng, đạt 25% kế hoạch cả năm, tăng 90% so với cùng kỳ năm 2022. Ước 6 tháng năm 2023, thu hút đầu tư đạt 200 triệu USD.
Lũy kế đến nay, các KCN đã thu hút được 706 dự án đang hoạt động, trong đó có 301 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vốn đăng ký trên 6,4 tỷ USD; 405 dự án đầu tư trong nước, vốn đăng ký gần 19.000 tỷ đồng.
Về thu hút lao động
Đến hết năm 2022, số lao động làm việc tại các KCN có khoảng gần 167.000 người, trong đó lao động nước ngoài là 1.200 người. Công tác tuyên truyền phổ biến hướng dẫn thực hiện pháp luật cho doanh nghiệp đã giảm thiểu tranh chấp lao động phát sinh, giữ vững ổn định tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội [1].
Công tác an ninh trật tự trong các KCN đã được đảm bảo, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, định hướng dư luận xã hội được quan tâm do đó doanh nghiệp và người lao động tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành pháp luật của Nhà nước, góp phần tăng giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu, nộp ngân sách của Thành phố và thu hút giải quyết việc làm cho nhiều lao động.
Một số hạn chế, thách thức
Mặc dù kết quả thu hút đầu tư vào các KCN cơ bản đạt kế hoạch đề ra, nhưng thu hút đầu tư chủ yếu là dự án mở rộng, chưa có dự án mới có quy mô lớn, công nghệ cao. KCN Hỗ trợ Nam Hà Nội có giá thuê lại đất cao hơn so với các tỉnh lân cận, mới thu hút được 1 dự án trong nước với vốn đầu tư 210 tỷ đồng; 1 dự án nước ngoài đầu tư 2 triệu USD. Khu CNC sinh học và KCN Quang Minh II tiến độ triển khai còn chậm. Tình hình phục hồi kinh tế sau dịch bệnh Covid-19 chậm, chuỗi cung ứng đứt gãy do dịch bệnh từng bước phục hồi có ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong các KCN [1].
Bên cạnh đó, quỹ đất sạch tại các KCN hiện cũng không còn nhiều. Nhiều yếu tố, như: chi phí thuê đất, vận tải cao hơn so với các tỉnh lân cận, công tác giải phóng mặt bằng chậm… Cơ bản hạ tầng kỹ thuật đã được hoàn thiện, song còn một số KCN nâng cấp từ các cụm cần phải tiếp tục hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật và duy trì việc cải tạo, duy tu nâng cấp hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu vận hành KCN, như: KCN Quang Minh I và phần mở rộng; KCN Thạch Thất – Quốc Oai; KCN Phú Nghĩa. KCN Nam Thăng Long từ năm 2008 đến nay vẫn chưa hoàn thành dự án tuyến đường vào của KCN do vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng. Một số chủ đầu tư hạ tầng KCN không đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng KCN theo quy hoạch, dẫn đến hạ tầng xuống cấp, chưa hoàn thiện.
Bên cạnh đó, các KCN của Hà Nội hiện nay vẫn đang tồn tại một số nhược điểm, như: Quy mô nhỏ, manh mún, chưa đồng bộ về hạ tầng, quản trị, công nghệ; Giá trị kinh tế – xã hội từ các KCN mang lại cho Thành phố cũng chưa cao, trong các KCN mới chủ yếu là các doanh nghiệp gia công, lắp ráp, doanh nghiệp Việt tham gia còn thấp, nên giá trị gia tăng còn rất ít. Thực tế, đây không chỉ là nhược điểm của các KCN của Hà Nội mà là thực trạng chung của cả nước.
GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
Trong bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại, nhiều rủi ro và thách thức tác động đến dòng vốn FDI, thì sự phát triển các KCN của nước ta cũng sẽ có những thay đổi với thuận lợi và khó khăn đan xen. Do vậy, để phát triển KCN cần có chính sách để tận dụng được cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và nâng cao hiệu quả thu hút và hợp tác đầu tư nước ngoài theo Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Cùng với đó, các định hướng, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong thời gian gần đây đặt ra yêu cầu về nâng cao hiệu quả phát triển các KCN, khu kinh tế theo hướng phát triển bền vững và đổi mới mô hình phát triển, hiệu quả sử dụng đất. Do đó, việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách về KCN đặc biệt là hoàn thiện thể chế, chính sách để đảm bảo KCN, khu kinh tế tiếp tục đóng vai trò là mô hình quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội là yêu cầu cấp thiết.
Cùng với các giải pháp chung của Trung ương, để thúc đẩy phát triển các KCN của Hà Nội, trong thời gian tới, cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh thu hút các nhà đầu tư, tháo gỡ khó khăn để đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN và các dự án thứ phát để lấp đầy các KCN mới và mở rộng. Theo đó, cần tuyên truyền quảng bá, xúc tiến đầu tư vào KCN đặc biệt là KCN Hỗ trợ Nam Hà Nội. Đẩy nhanh công tác rà soát và điều chỉnh quy hoạch, để tạo cơ sở pháp lý thu hút các nhà đầu tư hạ tầng triển khai các dự án KCN mới.
Thứ hai, đẩy mạnh thu hút đầu tư đón dòng vốn đầu tư nước ngoài chuyển dịch từ các nước sang Việt Nam. Định hướng phát triển các ngành nghề sản xuất công nghiệp trong các KCN những năm tới là một số ngành công nghiệp có tính chất chủ lực và dẫn đường, như: công nghệ thông tin, công nghiệp vật liệu mới, công nghiệp chế tạo, công nghiệp phụ trợ, điện tử, cơ khí chính xác, dụng cụ y tế, công nghiệp hóa dược nhằm chuyển cơ cấu ngành nghề phù hợp với định hướng phát triển công nghiệp của Thành phố giai đoạn 2021-2025 và những giai đoạn tiếp theo. Tổ chức đoàn công tác trao đổi, học tập kinh nghiệm tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, châu Âu, Mỹ về mô hình phát triển KCN kiểu mới và đẩy mạnh kêu gọi thu hút đầu tư vào KCN Hà Nội. Tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư tại chỗ đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong KCN. Tổ chức hội chợ triển lãm, trưng bày, giới thiệu sản phẩm công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ của các doanh nghiệp KCN.
Thứ ba, xây dựng phát triển các KCN, khu công nghệ cao đảm bảo sự đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cũng như người lao động để tạo sự phát triển bền vững, gắn bó doanh nghiệp với KCN, gắn bó người lao động với doanh nghiệp. Theo đó, Ban quản lý các KCN và khu chế xuất cần phối hợp các sở, ban, ngành liên quan xây dựng giải pháp, tham mưu cho UBND Thành phố từng bước triển khai xây dựng hạ tầng đồng bộ trong các KCN nhằm nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho công nhân lao động, nhất là thực hiện việc đầu tư xây dựng hoàn thiện các “thiết chế văn hóa”; xây dựng môi trường lành mạnh về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong các KCN.
Thứ tư, tăng cường nắm bắt tình hình doanh nghiệp trong các KCN. Thành uỷ, HĐND, UBND Thành phố cần ban hành các chủ trương, chính sách tháo gỡ khó khăn, giải quyết kịp thời những vấn đề phức tạp phát sinh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong KCN phát triển toàn diện. Chủ động nắm bắt tình hình, có giải pháp để giải quyết hiệu quả các tranh chấp giữa doanh nghiệp và người lao động nhằm ngăn chặn không để xảy ra đình công, bãi công giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Tạo những điều kiện thuận lợi về môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính để cho các doanh nghiệp yên tâm mở rộng phát triển sản xuất, thay đổi công nghệ tiên tiến, tăng giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu nhằm đẩy mạnh tái cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính trong việc giải quyết đồng thời các hồ sơ thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư. Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước sau cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với các dự án, nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong KCN. Tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc quản lý nhà nước về đầu tư đối với các dự án trong KCN được thực hiện theo đúng quy định. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về đầu tư đến các doanh nghiệp trong KCN.
Tiếp tục đổi mới việc tổ chức các hội nghị tập huấn, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các doanh nghiệp trong các KCN thực hiện tốt pháp luật về lao động, bảo hiểm, thương mại, thuế, bảo vệ môi trường, phòng chống cháy nổ, tiết kiệm năng lượng; các chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh và xuất nhập khẩu; thực hiện dịch vụ công trực tuyến… đảm bảo thiết thực, hiệu quả, hướng dẫn, giải đáp được các vướng mắc cho doanh nghiệp.
Thứ năm, thực hiện kiểm tra, giám sát tiến độ giải ngân, hoàn thành mục tiêu, quy mô các dự án đầu tư thứ phát theo giấy chứng nhận đăng ký đầu tư được cấp. Kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình đầu tư. Hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của pháp luật về các lĩnh vực: đầu tư, môi trường, quy hoạch xây dựng, lao động, phòng chống cháy nổ. Tiếp tục tăng cường phối hợp công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về lao động, đầu tư, tài nguyên môi trường, phòng cháy chữa cháy, quy hoạch xây dựng để đảm bảo các doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của pháp luật.
Phối hợp với các sở, ban, ngành kiểm tra, giám sát môi trường tại các KCN. Thực hiện việc lấy mẫu, quan trắc, phân tích môi trường tại doanh nghiệp nhằm đánh giá hiện trạng môi trường của các KCN (thường xuyên và đột xuất) hàng năm. Đảm bảo 100% các KCN đi vào hoạt động có hệ thống xử lý nước thải chung đạt tiêu chuẩn và được lắp đặt trạm quan trắc nước thải tự động để truyền số liệu về Sở Tài nguyên và Môi trường theo dõi, giám sát theo quy định.
Thứ sáu, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và thực hiện tốt các thủ tục hành chính theo thẩm quyền. Đổi mới lề lối, phong cách làm việc, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực trong thi hành công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức viên chức chuyên nghiệp, bản lĩnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển các KCN, nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước, đồng hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các KCN./.
(Nguồn: tạp chí kinh tế và dự báo)